Thông tin về tính an toàn của việc sử dụng thuốc ức chế bơm proton (PPI) dài hạn
15-10-2017 12:03 Khang Phan Pharma 1377Thuốc ức chế bơm proton (PPI) là một trong những thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trong thực hành lâm sàng. PPI có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng gây ra do tăng tiết acid dịch vị và nhìn chung được dung nạp khá tốt. Tuy nhiên việc sử dụng lâu dài các thuốc PPI có thể mang lại một số vấn đề đối với sức khỏe của bệnh nhân.
Các tác hại bất lợi của việc sử dụng PPI dài hạn ở bệnh nhân có thể chia thành 2 nhóm lớn: giảm hấp thu và nhiễm trùng. Việc giảm hấp thu do sử dụng PPI thường ảnh hưởng tới hấp thu canxi và magie; các tài liệu cũng chỉ rõ có 2 nhiễm trùng thường liên quan tới việc sử dụng PPI là Clostridium difficile và viêm phổi.
Giảm hấp thu canxi
Việc sử dụng PPI dài ngày có thể làm tăng nguy cơ loãng xương (osteoporosis) và làm giảm mật độ xương (BMD – bone mineral density), làm tăng 35% nguy cơ gãy xương.
Canxi đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành cũng như vững chắc của xương, vì nó là thành phần chính của hydroxyapatite (cấu trúc cơ bản của xương). Xương có thể chứa tới hơn 99% lượng canxi của cơ thể. Cơ chế PPI làm tăng nguy cơ gãy xương: việc hấp thu canxi phụ thuộc vào môi trường acid trong dạ dày-ruột. Những tác dụng dược lý của PPI có thể làm làm giảm tính acid trong dạ dày ruột, và việc hấp thu canxi từ đó mà bị giảm đi. Sự giảm hấp thu canxi làm cho hoạt tính của các tế bào hủy xương giảm dẫn đến giảm mật độ xương, hậu quả làm tăng nguy cơ gãy xương.
Một nghiên cứu trên 15.000 trường hợp gãy xương liên quan đến loãng xương phát hiện tăng tỷ lệ gãy xương hông ở bệnh nhân sau 5 năm dùng PPI (RR= 1,62) và nguy cơ tăng thêm nếu tiếp tục điều trị trong 7 năm (RR= 4,55). Bệnh nhân dùng PPI nhiều hơn 7 năm cũng tăng nguy cơ gãy xương không phải xương hông (RR= 1,92). Ngoài ra, một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu theo dõi 9.423 bệnh nhân trong 10 năm, sau khi đã kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác nhau đã nhận thấy việc sử dụng PPI liên quan đến thời gian có gãy xương. Một phân tích từ các dữ liệu có được từ một nghiên cứu đa trung tâm về loãng xương ở Nga cho thấy việc sử dụng PPI có liên quan đến mật độ xương thấp, đặc biệt là hông và cổ xương đùi, khi so sánh với nhóm không sử dụng PPI. Tuy nhiên, việc dùng PPI dài ngày không làm giảm đột ngột mật độ xương.
Giảm Magie máu
Tháng 3 năm 2011, FDA đã đưa ra một cảnh báo về nồng độ thấp của magie trong huyết thanh liên quan đến việc sử dụng PPI dài ngày. Một phân tích bởi hệ thống Báo cáo các phản ứng bất lợi (AERS – Adverse Event Reporting System) của FDA khẳng định khoảng 1% các bệnh nhân gặp tác dụng bất lợi trong khi dùng PPI là giảm hấp thu magie. Cơ chế đằng sau sự thay đổi trong hấp thu vẫn chưa rõ. Các triệu chứng của giảm magie bao gồm co giật, rối loạn nhịp tim, hạ huyết áp và co cơ kiểu tetani và cũng có thể dẫn đến tử vong. Bệnh nhân đang sử dụng PPI, có tiền sử nghiện rượu, có nguy cơ hạ magie máu tăng lên do tác dụng hiệp đồng của sử dụng ethanol mạn tính đến chức năng chuyển hóa. Sử dụng thuốc lợi tiểu, ciclosporin hoặc kháng sinh aminoglycosid đồng thời với PPI làm tăng nguy cơ hạ magie máu.
FDA khuyến cáo cần theo dõi nồng độ magie trong huyết thanh ở những bệnh nhân sử dụng PPI. FDA cho rằng bệnh nhân cần được kiểm tra nồng độ magie huyết thanh trước khi bắt đầu điều trị và cần phải được kiểm tra định kỳ khi bệnh nhân sử dụng PPI kéo dài hoặc bệnh nhân dùng đồng thời với thuốc làm giảm magie. Với những bệnh nhân có biểu hiện của sự giảm magie rõ ràng trên lâm sàng có thể yêu cầu dừng liệu pháp PPI, và bổ sung magie qua đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch, thay thế PPI bằng một nhóm thuốc khác đề điều trị các bệnh dạ dày ruột như thuốc H2RA.
Ngoài ra, một số nghiên cứu còn chứng minh rằng thiếu hụt vitamin B12 có liên quan đến sử dụng PPI dài ngày ở bệnh nhân cao tuổi.
Tăng nguy cơ nhiễm trùng
Ngoài việc làm giảm hấp thu canxi và magie, bệnh nhân sử dụng PPI dài ngày có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Cơ chế được đề xuất là sự bài tiết acid dịch vị như một cơ chế bảo vệ của cơ thể trước các vi khuẩn đường ruột, và việc làm tăng pH ở dạ dày trong khi sử dụng PPI tạo cơ hội cho vi khuẩn tấn công. Trong hướng dẫn năm 2013 của ACG đã cảnh báo nguy cơ nhiễm trùng tăng lên do Clostridium difficile và viêm phổi mắc phải cộng đồng (CAP – community-acquired pneumonia).
Trong một nghiên cứu hồi cứu năm 2005, các nhà nghiên cứu đã thấy rằng những bệnh nhân sử dụng PPI tăng nguy cơ nhiễm C.difficile 2.9 lần so với những bệnh nhân không dùng PPI. 75% những bệnh nhân đó trên 65 tuổi. Không phải tất cả các trường hợp sử dụng PPI kéo dài làm tăng nguy cơ mắc C.difficile nhưng những bệnh nhân dùng PPI trong điều trị nhiễm trùng do C.difficile nhiều khả năng bị nhiễm trùng tái phát hơn 42% sau khi kết thúc điều trị. Ngoài ra một phân tích gộp gồm 12 nghiên cứu, bao gồm gần 3000 bệnh nhân cho thấy điều trị ức chế tiết acid làm tăng nguy cơ nhiễm Clostridium difficile. Nguy cơ này tăng 1,7 lần khi dùng PPI 1 lần/ngày và tăng 2,4 lần nếu dùng nhiều hơn 1 lần/ngày. Sáu nghiên cứu đã phát hiện nguy cơ nhiễm Salmonella, Campylobacter và Shigella tăng cao hơn 3 lần ở bệnh nhân dùng PPI.
Một nghiên cứu trên 360.000 người phát hiện mối liên quan giữa việc sử dụng PPI và tăng nguy cơ viêm phổi. Nguy cơ này cũng tăng lên khi tăng liều PPI. Một nghiên cứu khác phát hiện khả năng bệnh nhân bị viêm phổi tăng 5 lần trong tuần đầu điều trị với PPI, sau đó giảm còn 1,3 lần ở bệnh nhân được điều trị từ 3 tháng trở lên.
Các dữ liệu hiện nay thống nhất việc sử dụng ngắn hạn PPI làm tăng nguy cơ viêm phổi nhưng hậu quả khi dùng dài ngày vẫn còn gây tranh cãi. Mặc dù vậy, nguy cơ này vẫn đáng phải lưu tâm. Laheij và cộng sự xác định tỷ lệ mắc viêm phổi là 2.5 trên 100 bệnh nhân dùng PPI trong khi ở bệnh nhân không dùng PPI là 0,6 trên 100 bệnh nhân. Với 65.7 triệu toa chỉ tính riêng omeprazole và chi phí y tế tăng lên 15.682 đô la do nhập viện vì viêm phổi có thể thấy sự cần thiết phải cảnh giác nguy cơ nhiễm trùng do sử dụng PPI.
PPI là một nhóm thuốc hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, việc dùng những thuốc này dài ngày cũng có thể dẫn đến những hậu quả lâu dài như giảm hấp thu một số khoáng chất và tăng nguy cơ nhiễm trùng. Do đó việc sử thuốc PPI cần phải được các nhân viên y tế tư vấn sử dụng đúng cách nhằm giúp bệnh nhân đưa ra được những quyết định đúng đắn để chăm sóc sức khỏe của bản thân.
BS. Trương Bảo Duy
(Tổng hợp)