Hội chứng quá kích buồng trứng (Ovarian hyperstimulation syndrome –OHSS) là một tình trạng đáp ứng quá mức với điều trị kích thích buồng trứng, chủ yếu thường gặp ở các bệnh nhân sử dụng Gonadotropin ngoại sinh. Hiện nay cơ chế bệnh sinh của hội chứng quá kích buồng trứng vẫn chưa được hiểu rõ ràng tuy nhiên có thể kể đến đặc trưng sinh lý bệnh của hội chứng này là tình trạng giảm albumin, tăng tính thấm thành mạch dẫn tới thoát dịch từ lòng mạch ra khoang thứ ba (ổ bụng, màng phổi, màng tim…)
BS. Trương Bảo Duy
Triệu chứng và biến chứng của OHSS
Triệu chứng ban đầu thường gặp là cảm giác căng tức vùng bụng, đầy bụng, buồn nôn, nôn ói, tiêu chảy, khó thở. Khám lâm sàng có các dấu hiệu như tăng cân nhanh, buồng trứng to và nhiều nang, thiểu niệu hay vô niệu, cô đặc máu (Hct 45 – 55%), báng bụng, tràn dịch màng tim, tràn dịch màng phổi, rối loạn nước điện giải (tăng Kali, giảm Natri)… Ngoài ra hội chứng suy hô hấp ở người lớn (ARDS), tăng đông cũng có thể gặp...Các triệu chứng có thể rầm rộ nhưng thường tự hồi phục trong khoảng thời gian từ 10 – 14 ngày. Một số trường hợp tử vong cũng được ghi nhận nhưng rất hiếm.
Tùy vào thời gian khởi phát OHSS, người ta chia ra hội chứng quá kích buồng trứng làm 2 nhóm: quá kích buồng trứng sớm và quá kích buồng trứng muộn. Nhóm quá kích buồng trứng sớm thường xuất hiện trong vòng 7 ngày kể từ ngày tiêm hCG và chủ yếu do hCG ngoại sinh. Nhóm quá kích buồng trứng muộn thường xuất hiện sau 10 ngày hoặc hơn kể từ ngày tiêm hCG và thường là hậu quả của hCG nội sinh do nhau thai tiết ra. Nhóm quá kích buồng trứng muộn có xu hướng kéo dài hơn và hậu quả nặng nề hơn so với nhóm quá kích buồng trứng sớm do sự hiện diện của hCG nhau thai kéo dài, và khó can thiệp điều trị hơn ở những phụ nữ có thai.
Có khoảng 1-2% phụ nữ có kích thích buồng trứng sẽ trải qua những biến chứng nặng của hội chứng quá kích buồng trứng, một số biến chứng có thể đe dọa đến tính mạng, các biến chứng của OHSS bao gồm:
- Tràn dịch màng bụng, màng phổi hoặc màng tim.
- Rối loạn điện giải.
- Huyết khối trong lòng mạch dẫn đến tắc mạch, thường gặp ở 2 chi dưới.
- Suy thận.
- Xoắn buồng trứng.
- Xuất huyết nội do vỡ nang buồng trứng.
- Suy hô hấp.
- Mất thai do sẩy thai tự nhiên hoặc do chấm dứt thai kỳ bắt buộc.
- Tử vong.
Yếu tố nguy cơ của OHSS
Những người phụ nữ trẻ có buồng trứng đa nang sẽ có nhiều nguy cơ mắc OHSS hơn những người bình thường. Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến khả năng mắc bệnh cao bao gồm:
- Người mắc hội chứng buồng trứng đa nang.
- Những người trẻ <35 tuổi.
- Những người có cân nặng thấp.
- Những người có nhiều nang có kích thước trung bình và nhỏ ở cả 2 buồng trứng.
- Những người có tiền căn OHSS.
- Người có nồng độ estradiol trong huyết thanh > 6000pg/ml trước tiêm hCG.
- Người có nồng độ estradiol tăng nhanh trong quá trình kích thích nang noãn.
- Những người mang đa thai.
- Những người mắc cơn đau đầu Migraine.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, những người mắc OHSS có thể không có bất cứ yếu tố nguy cơ nào.
Chẩn đoán và điều trị OHSS
OHSS là một bệnh lý có thể tự khỏi sau 10-14 ngày. Tuy nhiên, tùy vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân mà người thầy thuốc cần có những biện pháp xử trí thích hợp:
Khi phát hiện có triệu chứng của OHSS, bác sĩ cần đánh giá để quyết định điều trị tại nhà hay cần phải nhập viện. Trong phần lớn các trường hợp, bệnh nhân chỉ biểu hiện triệu chứng mức độ nhẹ. Nếu bệnh nhân chỉ có chướng bụng, đau bụng, không nôn ói và tiêu chảy nhiều, bệnh thường nhẹ và có thể theo dõi tại nhà và điều trị ngoại trú. Đối với các bệnh nhân điều trị ngoại trú cần chú ý các điểm sau:
- Lượng nước nhập-xuất mỗi ngày: bệnh nhân cần được khuyến cáo theo dõi lượng nước tiểu của cá nhân và không uống ít hơn 1 lít nước/ngày.
- Buồng trứng của những bệnh nhân OHSS thường lớn, rất dễ xoắn, do đó tránh các hoạt động thể lực gắng sức. Nên hoạt động nhẹ, tuy nhiên, tuyệt đối không được nằm yên một chỗ vì dễ dẫn đến huyết khối lòng mạch, nhất là ở 2 chi dưới.
- Cần theo dõi cân nặng, số đo vòng bụng. Nếu tăng cân, tăng vòng bụng nhanh cần đến bệnh viện khám lại và thực hiện các xét nghiệm cần thiết.
- Bệnh nhân OHSS có thai cần được theo dõi sát vì hCG tăng khi có thai sẽ làm nặng lên tình trạng quá kích buồng trứng.
- Uống thuốc chống nôn và đeo vớ áp lực chống huyết khối nếu cần.
Đối với bệnh nhân OHSS nặng cần phải nhập viện điều trị nội trú cần phải theo dõi:
- Sinh hiệu mỗi 2-8 giờ.
- Cân nặng, vòng bụng mỗi ngày.
- Lượng nước xuất-nhập mỗi ngày, đặc biệt chú ý khi bệnh nhân tiểu ít hoặc vô niệu.
- Thực hiện xét nghiệm công thức máu mỗi ngày để theo dõi tình trạng cô đặc máu.
- Thực hiện xét nghiệm ion đồ để theo dõi tình trạng rối loạn điện giải.
- Chụp phim X quang ngực, siêu âm tim, siêu âm bụng khi có nghi ngờ tràn dịch màng phổi, màng tim, màng bụng.
- Cần lưu ý những bệnh nhân OHSS nặng có thể vỡ nang buồng chứng gây nên xuất huyết nội làm ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân.
Đối với bệnh nhân OHSS không có điều trị đặc hiệu, chỉ có thể điều trị triệu chứng và nâng đỡ tổng trạng cho bệnh nhân:
- Thực hiện bù dịch: ưu tiên sử dụng dung dịch Detrose 5% và NaCl 0,9% hơn là dung dịch Lactate Ringer vì bệnh nhân OHSS thường có tình trạng hạ Natri máu. Khắc phục tình trạng giảm thể tích, hạ huyết áp và thiểu niệu là ưu tiên hàng đầu mặc dù truyền dịch có thể làm tăng lên tình trạng báng bụng.
- Truyền đạm: Do bệnh nhân có tình trạng giảm albumin nên việc bù đạm và dung dịch cao phân tử là cần thiết. Có thể dùng albumin 25% liều 50-100g, truyền trên 4h và lập lại mỗi 4-12 giờ. Tuy nhiên đối với dung dịch cao phân tử hoặc albumin cần phải truyền thật chậm để tránh nguy cơ phù phổi cấp.
- Chọc hút dịch: Chọc hút dịch dưới hướng dẫn của siêu âm được chỉ định đối với bệnh nhân báng bụng nhiều gây đau, ảnh hưởng chức năng phổi (thở nhanh, giảm oxy khí hít vào, tràn dịch màng phổi) hoặc thiểu niệu, vô niệu không cải thiện sau khi đã truyền dịch đầy đủ. Có thể chọc hút qua đường âm đạo hoặc bụng dưới hướng dẫn của siêu âm.
- Ngoài ra, huyết khối, suy thận, suy hô hấp cũng là những biến chứng nặng của OHSS. Cần phải thực hiện xét nghiệm và sử dụng thuốc dự phòng khi nghi ngờ bệnh nhân có những biến chứng nặng.
Dự phòng OHSS
Do điều trị OHSS không thể điều trị nguyên nhân mà chỉ có thể điều trị triệu chứng, do đó việc phòng ngừa OHSS cho bệnh nhân có kích thích buồng trứng là việc tối quan trọng. Chiến lược dự phòng hiện nay là phát hiện các đối tượng nguy cơ cao và thực hiện kích thích buồng trứng một cách cẩn thận:
- Nhận diện nhóm nguy cơ cao: những người đã có tiền căn OHSS trước đó hoặc có buồng trứng đa nang, những người trẻ tuổi hoặc có cân nặng thấp… Đối với những đối tượng này cần phải tư vấn kĩ cho bệnh nhân về nguy cơ OHSS và lựa chọn phác đồ kích thích buồng trứng thích hợp.
- Không cho hCG, hủy chu kỳ: phương pháp này giảm được khả năng OHSS nhưng buộc bệnh nhân mất một chu kỳ điều trị nên ít được dùng.
- Coasting: Nếu mức độ Estradiol của bệnh nhân cao, ngưng Gonadotropin và trì hoãn cho hCG cho tới khi nồng độ Estradiol không tăng nữa hoặc giảm đi.
- Khởi động phóng noãn bằng phương pháp khác: Vì hCG có vai trò then chốt trong việc phát sinh OHSS , có thể dùng liều thấp hCG cho các bệnh nhân nguy cơ cao.Thay vào đó có thể dùng GnRH đồng vận kích thích đỉnh LH nội sinh để hoàn tất sự trưởng thành nang noãn và gây phóng noãn.
- Đông lạnh phôi và trữ phôi toàn bộ.